Nhân khẩu Chiết_Giang

Lịch sử dân số
NămSố dân±%
1953 22.865.747—    
1964 28.318.573+23.8%
1982 38.884.603+37.3%
1990 41.445.930+6.6%
1995 43.120.000+4.0%
2000 46.770.000+8.5%
2005 48.980.000+4.7%
2006 49.800.000+1.7%
2007 50.600.000+1.6%
2008 51.200.000+1.2%
2009 51.800.000+1.2%
2010 54.426.891+5.1%
2011 54.630.000+0.4%
2012 54.770.000+0.3%

Tôn giáo tại Chiến Giang[34]

  Không tôn giáo / Tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa (74.36%)
  Tôn giáo khác (23.02%)
  Kitô giáo (2.62%)

Theo tổng điều tra nhân khẩu toàn quốc vào ngày 31 tháng 12 năm 2012, tỉnh Chiết Giang có khoảng 54,77 triệu nhân khẩu thường trú, chiếm 4,37% và đứng thứ 10 toàn quốc. Năm 2007, số nhân khẩu của Chiết Giang vượt qua con số 50 triệu. Theo số liệu từ cuộc tổng điều tra nhân khẩu năm 2010, tỉnh Chiết Giang có 54,43 triệu người.

Trên phương diện tăng trưởng tự nhiên, theo điều tra năm 2000, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên của Chiết Giang lần lượt là 10,30 ‰ và 4,17 ‰, chỉ cao hơn Thượng Hải và Bắc Kinh và thấp hơn so với các đơn vị hành chính cấp tỉnh khác. Việc tỷ lệ sinh thấp từng khiến Chiết Giang ra khỏi danh sách 10 đơn vị hành chính cấp tỉnh đông dân nhất trong cuộc điều tra năm 1990, khi đó nó đã bị Quảng Tây vượt lên, song Chiết Giang đã lấy lại vị thế trong cuộc tổng điều tra năm 2000 do tiêu chuẩn thống kê chuyển thành nhân khẩu thường trú thay vì tỷ lệ tăng tự nhiên. Tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên của Chiết Giang lần lượt là 10,12 ‰ và 4,60 ‰ năm 2012.

Trên phương diện tăng trưởng cơ giới, nhân khẩu tại các khu vực miền núi phía tây và tây nam của tỉnh suy giảm đáng kể, các khu vực ven biển và các đô thị lớn thu hút người nhập cư trong và ngoài tỉnh. Hàng Châu, Ninh Ba, Ôn Châu, Thiệu Hưng, Thai Châu là các khu vực điển hình của hiện tượng nhập cư. Cù Châu và Lệ Thủy là điển hình cho hiện tượng xuất cư, tổng nhân khẩu tiếp tục suy giảm. Chu Sơn có tổng dân số gần như giữ nguyên.[35]

Trong cuộc điều tra năm 2000, số người Hán tại Chiết Giang là 45.535.266 người, tức chiếm 99,1% tổng nhân khẩu toàn tỉnh. Các dân tộc thiểu số có tổng số 399.700 người. Người Xa là dân tộc thiểu số bản địa tại Chiết Giang, là nhóm dân tộc đông thứ hai sau người Hán, với 170.993, chiếm 0,4% tổng số nhân khẩu và 43% tổng nhân khẩu dân tộc thiểu số toàn tỉnh. Các huyện thị có trên 10.000 người Xa là khu Liên Đô (19.455 người), huyện tự trị dân tộc Xa Cảnh Ninh (16.144), Thương Nam (16.133), Thái Thuận (13.862) và Toại Xương (13658). Về tỷ lệ, người Xa chiếm 10,55 tổng nhân khẩu của huyện tự trị dân tộc Xa Cảnh Ninh và chiếm 8,6% tổng nhân khẩu của huyện Vân Hòa. Chiết Giang có một huyện tự trị dân tộc và 18 hương trấn dân tộc, đều của người Xa. Huyện tự trị dân tộc Xa là huyện dân tộc tự trị duy nhất của người Xa trên toàn quốc và là huyện dân tộc tự trị duy nhất tại Hoa Đông. Cũng theo số liệu năm 2010, có 19.609 người Hồi thường trú tại Chiết Giang, đa số sinh sống tại huyện Thương Nam và Thụy An. Các dân tộc thiểu số còn lại chủ yếu di cư đến Chiết Giang trong thời gian gần đây do các nguyên nhân xã hội như việc làm hay hôn nhân và không có khu vực cư trú riêng.

Chiết Giang là tỉnh có ít thành phố lớn song lại có nhiều thành phố vừa và nhỏ, chủ yếu phân bố tuyến tính hoặc đơn lẻ. Cuối năm 2011, tỉnh Chiết Giang có 1 siêu đại thành thị (có trên 2 triệu cư dân phi nông nghiệp có hộ tịch), 1 đặc đại thành thị (có từ 1-2 triệu cư dân phi nông nghiệp có hộ tịch), 1 đại thành thị (có từ 0,5-1 triệu cư dân phi nông nghiệp có hộ tịch). Trong số các địa cấp thị, ngoại trừ Lệ Thủy là tiểu thành thị (có chưa đến 200.000 cư dân phi nông nghiệp có hộ tịch), tất cả đều là thành phố cấp trung (có từ 0,2-0,5 triệu cư dân phi nông nghiệp có hộ tịch). Hàng Châu, Ninh Ba và Ôn Châu là tam đại thành thị của Chiết Giang. Chu Sơn là một trong hai địa cấp thị hải đảo duy nhất của Trung Quốc (cùng với Tam Sa).

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ bản địa của đại bộ phận cư dân Chiết Giang là tiếng Ngô. Số người sử dụng tiếng Ngô tại Chiết Giang ước tính vào khoảng 41,81 triệu người. Tại Chiết Giang, tiếng Ngô có nhiều phương ngữ, đa phần thuộc đại phương ngữ Thái Hồ như phương ngữ Tô-Gia-Hồ, phương ngữ Hàng Châu, phương ngữ Lâm-Thiệu, phương ngữ Dũng-Giang, các phương ngữ tiếng Ngô phương Nam có phương ngữ Thai Châu, phương ngữ Kim-Cù, phương ngữ Thượng Lệ, phương ngữ Âu Giangphương ngữ Tuyên Châu. Giữa các phương ngữ của tiếng Ngô có sự khác biệt đáng kể. Tiếng Ngô có phụ âm, nguyên âm, thanh điệu, ngữ pháp, từ vựng hoàn toàn khác so với các phương ngôn phương Bắc Trung Quốc. Ngoài ra, trên địa bàn Chiết Giang cũng có những vùng không nói tiếng Ngô, trong đó tiếng Mân Nam là phương ngôn lớn thứ hai tại tỉnh với khoảng 1-2 triệu người nói, tập trung ở phía nam. Tiếng Huy là phương ngôn lớn thứ ba tại Chiết Giang, chủ yếu được nói tại Thuần An và Kiến Đức. Cư dân tại phía nam huyện Thái Thuận sử dụng phương ngôn Man Giảng của tiếng Mân Đông. Có 200.000 cư dân tại vùng đồng bằng ven biển phía đông huyện Thương Nam nói phương ngôn Man Giảng. Tại Chiết Giang cũng có một bộ phận người Khách Gia. Quan thoại chủ yếu được các di dân và hậu duệ của họ sử dụng, tiếng Phổ Thông là ngôn ngữ giáo dục.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiết_Giang http://219.235.129.54/cx/table/table.jsp http://jds.cass.cn/Article/20071215171724.asp http://www.china.com.cn/aboutchina/zhuanti/mtlddf/... http://www.china.com.cn/economic/zhuanti/2007figur... http://www.china.com.cn/policy/txt/2008-09/17/cont... http://news.cnnb.com.cn/system/2006/01/08/00506247... http://www.curb.com.cn/pageshow.asp?id_forum=01191... http://tech.enorth.com.cn/system/2005/12/29/001200... http://guide.hangzhou.com.cn/20070515/ca1313100.ht... http://finance1.jrj.com.cn/news/ng%C3%A0y